Truyện cổ tích thế tục là một trong những thể loại của truyện cổ tích, xoay quanh những sự kiện đời sống thường ngày, hoạt động, sinh hoạt của người dân. Yếu tố thần kì vẫn có nhưng không đóng vai trò giải quyết xung đột, mâu thuẫn chính trong tác phẩm. Đây là thể loại gần gũi và dễ tiếp thu. Mỗi ngày hy vọng sẽ giới thiệu đến bạn thật nhiều truyện cổ tích hay và ý nghĩa. Và trong bài viết hôm nay sẽ giới thiệu đến bạn các truyện cổ tích thế tục Việt Nam hay và ý nghĩa nhất.
Sự tích cây chổi
Ngày trước ở trên cung đình của nhà trời có người đàn bà rất khéo tay, bà nấu ăn rất ngon. Những thứ bánh trái mà bà chế ra đều là tuyệt phẩm cả, chỉ cần nếm qua những món ăn ấy là lại không cách nào quên được hương vị của nó. Vì thế bà được Ngọc Hoàng thượng đế giao cho trách nhiệm trông nom toàn bộ chuyện nấu nướng ở thiên trù.
Tuy nhiên thì bà lại có tật ăn vụng, cũng rất tham lam nữa. Lệ của nhà trời đã quy định rất rõ ràng, người hầu kẻ hạ có thức ăn riêng, không bao giờ được phép đụng chạm tí gì tới ngự thiện, kể cả đó là đồ mà Ngọc Hoàng bỏ thừa. Nhưng mà những luật lệ ấy cũng không thể nào mà ngăn cản được những người thèm khát và đã nổi lòng tham. Vì thế người đàn bà kia vẫn luôn tìm mọi cách làm kho thức ăn nhà trời dần hao hụt.
Bà ta tuy tuổi cũng đã quá xuân rồi nhưng lại rất yêu lão chăn ngựa của thiên đình. Mà đời sống thường ngày của đám người chăn ngựa ở cõi trời chẳng khác chi dưới cõi đất cả, đều rất cực khổ và khó khăn. Mà người đàn ông ấy lại rất thích rượu, kể từ khi ông ta gặp được người đàn bà kia thì lại thêm thói thèm đồ ăn ngon.
Người đàn bà say mê lão chăn ngựa tưởng chừng như chẳng còn gì hơn cả. Mỗi khi mà thấy ông ta thèm đồ ăn hay đồ uống nhà trời thì bà ta chẳng ngần ngại điều gì. Đã không biết bao nhiêu lần bà đánh cắp thịt rượu ở thiên trù để giấu mang cho ông ta ăn. Cũng có không ít lần bà đem ông ta tới kho rượu nhà trời để mặc cho ông uống say bí tỉ.
Vào một ngày kia, hôm ấy Ngọc Hoàng mở tiệc lớn để chiêu đãi quần thần trên thiên đình. Bà cùng với các bạn cùng nấu bếp với mình phải làm việc tất bật. Bởi vì chỉ chập tối là tất cả món ăn đều phải được chuẩn bị đầy đủ rồi. Để cho khi ánh nguyệt đêm rằm chiếu sáng thì mọi người có thể bắt đầu nhập tiệc.
Tuy nhiên, vào giữa lúc mà cỗ đang được dọn lên mâm, ở đằng xa kia bà lại nghe được tiếng của lão chăn ngựa đang hát. Biết là ông đến tìm mình nên bà lại lật đật chạy ra đón, sau đó bà đưa ông giấu vào trong một góc chạn. Bà ta đem đến mấy chén rượu cho ông ta, đó là thứ rượu ngon nhất thiên tào, sau đó lại phải đi ra để làm cho xong mẻ bánh hạnh nhân đang làm dở.
Bởi vì lão chăn ngựa vừa cho đàn ngựa đến bến sông tắm về. Khi bưng bát cơm hẩm của mình thì ông ta lại sực nhớ tới những thứ rượu thịt giờ đang ê chề trong thiên trù, vì thế nên mới vội vã lần mò đến. Ở trong góc chạn tối tăm, ông uống ừng ực liền mấy chén rượu và lấy làm khoan khoái lắm. Những chén rượu này quả là tuyệt hảo, hơi men thấm vào khiến ông ta choáng váng. Đột nhiên ông ta lại thèm thứ gì để mà đưa cay. Mà trên giá mâm để ngay gần đó, những thứ mỹ vị cứ đưa hương thơm phức tới chỗ ông. Đang cơn đói, lại trong bóng tối, ông ta liền lật lồng bàn lên rồi bốc lấy bốc để, chẳng kiêng dè gì nữa.
Đến khi lính hầu đem những mâm ngự thiện ấy trình lên bàn tiệc thì món nào đều như có người đã nếm qua từ trước vậy. Ngọc Hoàng trông thấy thì nổi cơn thịnh nộ, và tiếng quát mắng của Người khiến cho tất cả đều hết sức sợ hãi. Sự giận dữ của Ngọc Hoàng đã khiến cho bữa tiệc đang vui vẻ cũng phải ảm đạm. Không còn cách nào khác, người đàn bà nấu bếp đành phải cúi đầu mà nhận tội.
Vì đây là tội nặng nhất trên thiên đình nên cả hai người bị Ngọc Hoàng thượng đế đày xuống nơi trần gian làm những chiếc chổi quét nhà, cả năm phải làm việc không nghỉ tay, còn phải tìm thức ăn ở trong đống rác rưởi vô cùng dơ bẩn ở nơi trần gian kia.
Một thời gian rất lâu sau đó, vì thấy phạm nhân kêu than rằng suốt năm suốt tháng đều phải làm khổ sai không ngơi không nghỉ. Ngọc Hoàng thượng đế vì thương tình nên cho phép bọn họ được nghỉ ngơi ba ngày trong một năm. Mà ba ngày ấy chính là ba ngày diễn ra Tết Nguyên đán, bởi vậy nên con người mới có tục lệ là kiêng quét nhà quét cửa trong ngày Tết.
Hơn nữa trong dân gian còn có câu đố như sau: “Trong nhà có bà hay la liếm”, chính là mô tả về thần tình và động tác khi dùng chổi quét nhà, tuy nhiên thì trong đó cũng có ngụ ý nhắc lại sự tích về cái chổi…
Rét nàng Bân
Nàng Bân vốn là con Ngọc Hoàng nhưng thua kém các chị vì tính chậm chạp. Sau khi lấy chồng, khi may áo rét cho chồng mãi đến hết mùa rét mới xong. Ngọc Hoàng vì thương con đã cho trời rét trở lại mấy hôm để chồng nàng được thử áo. Chính vì vậy từ đó mới có rét nàng Bân.
Nàng Bân là con gái của Ngọc Hoàng nhưng khác với nhiều chị em của mình, nàng Bân chậm chạp và có phần vụng về. Tuy nhiên, nàng Bân vẫn được cha mẹ yêu chiều. Ngọc Hoàng và Hoàng Hậu thương con thua em kém chị nhưng không biết làm cách nào, mới bàn nhau lấy chồng cho nàng để nàng biết thêm công việc nội trợ trong gia đình.
Chồng nàng Bân, cũng là một người trên giới nhà trời. Nàng yêu chồng lắm. Thấy mùa rét đã đến, nàng định tâm may cho chồng một cái áo ngự hàn. Những nàng vụng về quá, khi bắt đầu rét, nàng Bân đã bắt đầu công việc song cứ loay hoay mãi, tìm được cái nọ thì thiếu cái kia, xe được chỉ thì chưa có kim, đưa sợi vào dệt thì thoi, suốt lại hỏng. Đến nỗi trời đã sắp sang xuân rồi mà chỉ mới may trọn được đôi cổ tay. Nhiều người trên trời đã chế giễu nàng:
“Nàng Bân may áo cho chồng
May ba tháng ròng mới trọn cổ tay”.
Nhưng nàng Bân vẫn không nản chí. Nàng may mãi qua tháng Giêng rồi hết tháng Hai, cho tới khi áo may xong thì vừa lúc trời hết rét. Nàng Bân buồn lắm. Thấy con âu sầu, Ngọc Hoàng gạn hỏi. Khi biết chuyện Ngọc Hoàng cảm động bèn làm cho trời rét lại mấy hôm để chồng nàng mặc thử áo.
Từ đó thành lệ, hàng năm vào khoảng tháng Ba tuy mùa rét đã qua, mùa nóng đã tới nhưng có lúc tự nhiên rét lại mấy hôm, người ta gọi cái rét đó là rét nàng Bân. Tục ngữ có câu: “Tháng Giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng Ba rét nàng Bân” là vì thế.
Sự tích cái Lồng đèn
Một nhà sư vân du làm lồng đèn hình cá chép để cho cá chép thành tinh tưởng là đồng loại mà bỏ đi không hại người nữa….
Ngày xưa, ở dọc theo một bờ sông nọ, có một ngôi làng dân cư đông đúc, phồn thịnh. Bỗng nhiên, ở dưới sông có một con cá chép thành tinh xuất hiện. Con cá này thường lên bờ vào đêm trăng tròn tháng tám tìm bắt người ta để ăn thịt. Dân cư trong làng tìm cách trốn tránh hoặc chống cự, nhưng năm nào cũng vậy, cứ đến rằm tháng tám là có rất nhiều người bị con cá chép thành tinh sát hại. Nhiều người phải bỏ làng mà đi. Làng xóm vì vậy mà trở nên thê thảm, tiêu điều.
Một hôm có nhà sư vân du qua đó, nghe dân làng trình bày thảm họa mà họ đang gánh chịu, ông mới bày cho dân làng làm mỗi nhà một cái lồng đèn hình con cá chép thật lớn, bên trong là nan tre, bên ngoài phủ vải. Đến rằm trung thu, dân làng đem lồng đèn treo trước cửa, trong lồng đèn có thắp đèn sáp lớn. Khi cá chép thành tinh lên bờ tìm người để ăn thịt, đi đến nhà nào nó cũng thấy lồng đèn cá chép, tưởng là nhà của đồng loại nên bỏ đi.
Từ đó, mỗi năm cứ đến rằm trung thu, dân làng lại làm lồng đèn cá chép. Tục này ngày càng lan rộng ra khắp nơi, trở thành một thú vui trong ngày Trung Thu. Theo thời gian, lồng đèn cá chép được những tay thợ đầy sáng kiến chế biến thành những kiểu lồng đèn khác như cá hóa long, con thỏ, con rồng, v.v… Theo đà văn minh của nhân loại, lồng đèn được mang hình thức xe tăng, máy bay, tàu thủy, xe hơi, v.v…
Sự tích Tháp Bút Kim Nhan
Có một anh học trò nghèo nọ khi chuẩn bị lên đường đi thi thì được đàn thú giúp đỡ để có đủ các vật dụng. Trong số đó, cóc đã giúp ăn bằng cách ăn cắp nghiên và bút của Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng biết được giận dữ sai thiên lôi đánh khiến bút văng ra mọc thành ngọn núi Kim Nhan.
Anh học trò nghèo, ngày ngày lên rừng đốn củi bán lấy tiền ăn học và nuôi cha mẹ, đêm đêm đốt củi học bài. Người anh gầy gò, ốm yếu. Cha mẹ nhìn anh, thương hại, khuyên “học tài thi phận. Con học vừa phải để giữ gìn sức khỏe”, Nhưng anh không nghe. Đêm nào cũng vậy, anh gối đầu lên một khúc gỗ xù xì để cho đầu đau, không thể ngủ quên được. Sắp đến kỳ thi mà anh chưa sắm sanh được gì. Lều chưa có. Chõng chưa có. Bút chưa có. Nghiên chưa có. Sức anh lại gầy còm… Anh ngồi khóc. Bỗng dưng rừng nổi gió. Lá đổ ào ào. Anh ngẩng đầu nhìn ra xung quanh, thấy hàng trăm con thú rừng: hổ, nai, hươu, khỉ, trăn, cóc… Anh hoảng sợ. Nhưng chú hổ hiểu ý anh, liền nói: “Chúng tôi đến đây không phải để ăn anh, mà để giúp anh sắm những thứ cần thiết cho kỳ thi sắp tới”. Mặt mũi anh rạng rỡ. Bầy thú hối hả: con thì đi sắm đòn gánh, con thì làm chõng, con thì làm lều… Xong xuôi mọi thứ, chỉ còn thiếu nghiên mực và cái bút. Bầy thú nhìn nhau lo lắng. Bỗng chú cóc hăm hở thưa: “Tôi nghĩ ra rồi. Tôi là cậu ông trời. Tôi sẽ lên gặp Ngọc Hoàng. Nếu Ngọc Hoàng lôi thôi, tôi sẽ đánh cắp bút lông và nghiên mực của Ngọc Hoàng”. Cả đám thú vui sướng, cười ha ha… Mấy hôm sau, cóc lò dò mang bút và mực về.
Đến ngày lên đường vào kinh, anh học trò vui vẻ cảm ơn đàn thú đã giúp mình sắm sanh đầy đủ. Nhưng đến lúc đặt gánh lên vai, anh không đi nổi, vì bụng đói, sức yếu. Anh lại ngồi khóc. Bầy thú lại đến giúp: nấu cho anh ăn một bữa no nê, rồi gánh dùm các thứ cho anh. Hổ mang chõng, nai mang lều, hươu mang ghế, cóc mang nghiên và bút. Trăn thì bò theo để khi gặp sông suối sẽ vắt mình làm cầu… Đàn thú đang đi tưng bừng như một ngày hội, thì trên trời, Ngọc Hoàng biết mất bút và mực do cóc đánh cắp, bèn sai Thiên Lôi đánh. Trời đang yên lành, bỗng nổi ầm ầm giông tố, sấm sét. Cóc bị đánh trúng một quả tầm sét, nghiên vỡ tung tóe và tạo thành những cái hồ xung quanh, bút văng ra một nơi và mọc thành ngọn núi Kim Nhan.Tháp bút Kim Nhan mỗi ngày một mọc cao. Người ta cho đó là điềm lành mà Ngọc Hoàng đã ban phát cho vùng đất này nẩy sinh ra những nho học.
Sự tích Hồ Tây
Hồ Tây hay Hồ Trâu Vàng xuất phát từ việc khi Nguyễn Minh Không chữa được bệnh cho hoàng tử Trung Quốc thì được ban thưởng đồng đen. Khi về nước, đồng đen được đúc thành chuông phát ra tiếng ngân đến tận Trung Quốc làm cho trâu vàng lồng lên chạy theo hướng tiếng chuông. Lúc đó, nhà vua đã sai ném chuông lẫn trâu vàng xuống hồ tạo nên hồ Tây ngày nay.
Hồ Tây mới đầu chỉ là tên chung chỉ hồ ở phía tây bắc kinh thành. Gọi mãi trở thành tên riêng là Hồ Tây. Trong dân gian, Hồ Tây còn được gọi là hồ Trâu Vàng và còn có tên khác là Dâm Đàm (đầm mù sương). Theo tài liệu nghiên cứu của ông Bùi Văn Nguyên trong “Cảnh trí Hồ Tây” xuất bản năm 1978″ thì tên Dâm Đàm còn được sử dụng đến năm 1573 (đời nhà Trần, nhà Lý). Khi vua Lê Thế Tông lên ngôi, người ta mới tránh gọi hồ là Dâm Đàm, vì tên húy của vua là Duy Đàm, thay vào đó là Hồ Tây.
Sách “Tây Hồ chí” còn ghi, Hồ Tây có từ thời vua Hùng. Lúc ấy, nơi đây là một bến ở cạnh sông Hồng, thuộc động Lâm Ấp, nên gọi là bến Lâm Ấp của thôn Long Đỗ. Mãi tới thời Hai Bà Trưng, bến này thông với sông Hồng. Chung quanh bến Lâm Ấp là một rừng lim rậm rạp có nhiều hang động. Người già ở địa phương còn cho biết, khi đánh cá, thỉnh thoảng họ vớt được những khúc gỗ lim ở dạng trầm tích. Về địa lý, Hồ Tây là hồ ngoại sinh, có dạng lòng chảo. Hồ tạo thành chủ yếu là do tác dụng xâm thực của sông Hồng. Nhưng trong dân gian có nhiều truyền thuyết về sự hình thành Hồ Tây.
Truyền thuyết Hồ Trâu Vàng kể lại rằng, đời nhà Lý, ở nước ta có Nguyễn Minh Không sang Trung Quốc chữa bệnh cho con vua Tống. Khi hoàng tử khỏi bệnh, vua Tống trả ơn bằng cách cho phép Minh Không vào kho báu lựa đồ theo ý thích và muốn lấy bao nhiêu cũng được Minh Không hóa phép chỉ lấy đồng đen (vì đồng đen được coi là “mẹ” của vàng) và thu hết cho vào một bao mang về dâng vua Lý. Vua
sai đem chỗ đồng đen ấy đúc thành cái chuông. Chuông đúc xong mang ra đánh thử. Tiếng chuông vang xa ngàn trùng đến tận Trung Quốc. Nghe tiếng chuông ngân, trâu vàng ở bên ấy lồng lên chạy về nơi phát ra tiếng chuông. Đến khu rừng phía bắc Thành Thăng Long thì tiếng chuông im bặt. Trâu vàng mất hướng đi, lồng lên đi tìm và giẫm nát cả một khu rừng, còn đất thì lún xuống thành hồ. Những nơi trâu đi thành sông mà ngày nay còn lại di tích, đó là sông Kim Ngưu. Nhà vua đã sai ném cả chuông lẫn trâu vàng xuống hồ để trâu khỏi lồng lên. Và hồ ấy chính là Hồ Tây ngày nay. Truyền thuyết còn kể, nếu ai sinh đủ 10 người con trai thì có thể đến hồ gọi trâu vàng về. Một lần có người đến gọi được trâu vàng lên khỏi mặt nước, dắt trâu vào bờ. Bỗng nhiên, thừng bị đứt, trâu vàng chui ngay vào hang ở gần đó. Nơi đó nhân dân lập đền thờ gọi là đền Kim Ngưu trên đường vào phủ Tây Hồ hiện nay. Về sau mới biết, người gọi trâu chỉ có 9 con trai ruột và 1 con trai nuôi.
Một truyền thuyết khác kể rằng. Xưa kia ở núi đá Tản Viên, có hang mà con cáo (hồ tinh) chín đuôi hay lên quậy phá làm hại nhân dân. Thấy vậy Thượng Đế sai Long Vương dâng nước phá hang của cáo. Cáo chín đuôi bỏ chạy. Quân thủy của Long Vương đuổi theo bắt cáo. Nơi cáo bị giết thịt trở thành cái đầm sâu gọi là Đầm Xác Cáo mà ngày nay gọi là Hồ Tây. Ở vùng Xuân Đỉnh đến nay vẫn còn có làng Cáo. Có lẽ địa danh này có liên quan đến truyền thuyết về Đầm Xác Cáo. Dân gian còn kể: Ngày xưa Trấn Vũ là một người có tài và có công trừ yêu, dẹp giặc nhiều lần, nhưng không chịu làm quan. Ông chỉ muốn đi tu cho đủ chín kiếp mười đời để thành Phật. Lý do tu đủ 10 đời cũng được nhân dân tương truyền lại. Qua rất nhiều thử thách, đã có lần ông bị Phật Bà phạt vì không dám đỡ đẻ cho một phụ nữ gặp trên đường. Ông bị Phật Bà cho rằng bản lĩnh tu hành chưa cao, tránh khó khăn và bắt Trấn Vũ tu thêm một kiếp nữa. Ông đã có ý chán nản, nhưng thực tế cuộc sống, những người ông gặp đã củng cố lòng kiên nhẫn của ông. Ông tiếp tục tu hành để trở thành người có đạo đức cao siêu, vừa có phép thuật siêu cao (mà sau này ông là một trong bốn vị thần của Hà Thành).Ngày ấy, ở phương bắc có bà Hoàng bị hủi không ai chữa nổi. Nhà vua cho người cầu thầy thuốc giỏi về chữa trị. Trấn Vũ được mời chữa trị và chữa khỏi. Khi vua ban thưởng, ông không nhận gì chỉ xin đồng đen. Vì có phép thuật, nên nhà vua mất rất nhiều đồng đen vào cái túi nhỏ của Trấn Vũ. Vua ra lệnh không ai được chở giùm, mặc kệ Trấn Vũ. Ông đã dùng mũ làm thuyền để chở đồng đen về nước đúc chuông. Câu chuyện tiếp theo giống như truyền thuyết Hồ Trâu Vàng kể ở trên.
Con cáo yêu tinh chín đuôi vẫn thỉnh thoảng hiện về hại dân, nên mọi người cầu thánh Trấn Vũ trừ yêu. Thánh sai làm một cái thuyền và một bộ dây thật bền. Thánh tự buộc mình vào đầu dây, lặn xuống hồ. Yêu tinh nuốt thánh vào bụng, thánh giật dây cho dân làng kéo lên và dùng dao nhọn mổ bụng yêu tinh để thánh ra. Mọi việc xong xuôi, có một lần vào buổi tối, trên đường về nhà, thánh gặp một người con gái xin vào trú mưa. Đến đêm cô gái bị đau bụng nguy kịch, thánh xoay xở hết cách. Cuối cùng thánh nhớ câu truyền: “Đau bụng lấy bụng mà chườm; Nhược bằng không khỏi, hoắc hương với gừng”… Phật Bà hiện lên cho rằng thánh còn trần tục. Bị oan ức, thánh tự mổ bụng lấy ruột gan vứt khắp mọi nơi. Mãi về sau, thánh mới được Phật Bà xét lại cho tu thành quả. Ruột của ông vứt xuống hồ thành Bạch Xà (nay thuộc địa bàn Quảng Bá); bao tử của thánh thành Kim Quy (nay thuộc địa bàn thôn Tây Hồ). Hai con vật này lại trở thành yêu tinh giết hại dân làng, xương chất thành đống (chính là nơi trường Chu Văn An hiện nay). Trời lại sai thánh trừ yêu. Kim Quy thánh giẫm dưới chân, còn Bạch Xà thánh quấn vào bên kia. Từ đó dân sống ven Hồ Tây mới yên ổn làm ăn.
Hồ Tây và hồ Trúc Bạch xưa kia chỉ là một. Vì Hồ Tây lớn quá, nhân dân ba làng Trúc Yên, Yên Phụ, Yên Quang mới đắp con đê chắn ngang để giữ phần cá về phía mình. Con đê đó nay trở thành đường Thanh Niên.
Sự tích hoa ngô đồng
Một người đàn ông đàn rất hay và đã phải lòng một cô gái tuổi xuân thì nên ông đành giấu kín cảm xúc của mình. Cô gái và chàng trai hai người đều là học trò của ông, họ đã yêu nhau. Ông vừa vui vừa buồn bã, ông bị cảm nặng rồi qua đời….
Ngày xửa ngày xưa tại một vùng nào đó có một người đàn ông đánh đàn rất hay. Tiếng đàn của người đàn ông hay đến nỗi ai nghe thấy cũng đều phải khen ngợi. Người đàn ông có một cây đàn hình dạng năm cánh và khi ông gãy đầu có đủ các cung bậc của cảm xúc như vui, buồn, giận, hờn,…
Đi đâu cây đàn cũng luôn được ông mang theo. Ông luôn muốn mình gặp được học trò có tài để truyền dạy nghề của mình và ông còn mong muốn sẽ tìm được người phụ nữ có thể chung sống trong quãng thời gian còn lại.
Một ngày, ông đã gặp cha con nhà nọ khi đi đò, con gái của người đàn ông nọ mới 16 tuổi nhưng lại có một vẻ đẹp không ai sáng bằng. Đó là một nét đẹp trong sáng và cao quý lạ thường cô gái rất thích đánh đàn. Vào một ngày người đàn ông nhận ra người con gái này đều có những phẩm chất của người phụ nữ ông luôn mong muốn. Nhưng lứa tuổi của ông thì lệch rất nhiều so với cô gái đang độ tuổi xuân.
Ông đành giấu kín nỗi lòng của mình. Một hôm ông chủ nhà đã xin ông dạy đàn cho người con của bạn mình. Đó là một người có tài đánh đàn và chỉ cần nghe qua là nhớ mãi. Thấy vậy ông thầy dạy đàn lại nghĩ biết đâu đây lại là người học trò mà ông mơ ước. Rồi ông bảo với người chủ nhà đưa con của người bạn đến.
Cô gái luôn chăm sóc chu đáo cho thầy dạy. Một hôm người bạn của chủ nhà đưa con trai đến, một cậu con trai mười bảy tuổi. Cậu con trai đã đánh thử cho ông thầy dạy đàn nghe và ông vô cùng kinh ngạc bởi đây là tiếng đàn ông chưa từng được nghe bao giờ. Một tiếng đàn sâu lắng rất trong sáng.
Cô gái và chàng trai nhanh chóng trở nên thân thiết. Hai người hay trò chuyện hay đi hái hoa cùng nhau và ông thầy dạy đàn vừa mừng và cũng làm ông đau khổ. Chàng trai rất chịu khó tập đàn và ngày một hay hơn. Tiếng đàn rất có hồn và dễ đi vào lòng người với những giai điệu buồn hoặc vui
.
Và rồi đôi trai gái cũng đã yêu nhau từ khi nào không hay. Thấm thoát đã hai năm trôi qua cô gái ngày càng xinh đẹp và chàng trai ngày càng tài năng hơn. Không chỉ có tiếng đàn hay anh còn tự mình viết lên nhưng bản nhạc mới rất gần gũi với cuộc sống.
Rồi một ngày nhà vua tổ chức cuộc thi chọn người tài giỏi. Người thầy đã đưa học trò cũng mình đến kinh thành dự thi. Sau mấy ngày thi cả hai học trò của người thầy đều được khen thưởng. Chàng trai đã được chọn làm người trẻ tuổi đánh đàn hay nhất, cô gái được mọi người yêu thích và ngưỡng mộ nhất.
Sau khi dự tiệc chiêu đãi nhà vua liền ra lệnh mời thầy dạy đàn vào gặp vua. Nhưng người thầy đã ra đi và có để lại cho hai học trò của mình một bức thư. Trước lúc người thầy đi xa, ông đã quay lại từ biệt người chủ nhà và thông báo chuyện đoạt giải của chàng trai và cô gái.
Đêm hôm đó ông ngồi một mình trên bãi cát ven sông. Dòng sông như sáng lấp lánh dưới ánh trăng. Vừa uống rượu, ông vừa ôm cây đàn vào lòng đánh lên những âm thanh đầu tiên của làn điệu đang ngân nga trong lòng ông. Rượu ngon, trăng sáng, ông chìm đắng trong tiếng đàn và cảm thấy mình như đang chơi vơi giữa lưng trời, ở con sông đang sáng rực.
Nhưng cũng lúc này chàng trai và cô gái đã về tới nhà. Sáng hôm sau, trời còn chưa sáng ông đã trở dậy và âm thầm ra đi không cho một ai hay biết. Thế nhưng vẫn có một người hay biết. Đó là cô gái. Lặng lẽ nhìn người thầy ra đi trong sương sớm, cô khẽ ôm lấy mặt để khỏi bật khóc và đưa tay lau hai giọt nước mắt vừa trào ra.
Sau một thời gian trôi qua, một hôm có người đã mang cây đàn và bình rượu của thầy dạy đàn đến biếu ông chủ nhà. Và được người khách cho biết ông thầy đã mất được mấy hôm do bị cảm nặng. Cả ba người đều vô cùng buồn bã khi biết tin này. Trước khi chết người thầy luôn đánh một bản nhạc quen thuộc rất hay của mình. Chàng trai rất muốn đánh lại bản nhạc của thầy. Rồi chàng cầm đàn so dây tiếng đàn cất lên làm mọi người.
Ông chủ nhà cùng chàng tria và cô gái đã lập bàn thờ và bia ở trong vườn. Cây đàn và bình rượu được treo ngay cạnh bàn thờ của người thầy. Một bình rượu đầy một loại rượu mà ông vẫn hay uống. Rồi vào một ngày trong mùa xuân mọi người ra thắp hương cho người thầy mọi người đều bất ngờ khi trong miệng bình lại mọc lên hai cái lá con to khỏe vươn dài.
Một thời gian sau, cây trổ hoa. Hoa có màu đỏ tươi, năm cánh nhỏ xíu và túm tụm vào nhau nhìn xa như những vết máu đỏ li ti… Mọi người gọi loài hoa ấy là hoa ngô đồng.
Ngày nay ở nước ta cây hoa ngô đồng được trồng tại Huế. Trong Đại Nội ở Huế hiện nay có rất nhiều cây hoa ngô đồng. Đến với Huế vào tháng 2 đến tháng 5 âm lịch bạn sẽ được ngắm, thưởng thức loài hoa đẹp này. Nhưng người thưởng thức hoa lại không hẳn ai cũng biết về sự tích hoa ngô đồng đầy u buồn này. Một sự tích hoa mang nhiều đau thương.
Sự tích cái mõ
Cá Kình có oán với nhà sư. Nhưng sau khi nghe nhà sư nói thì cá Kình không oán trách nữa mà còn biết ơn nhà sư. Sau cái mõ được phổ theo hình con cá…..
Ngày xưa, có một vị Hòa Thượng trụ trì một cảnh chùa ở gần bờ sông trong một thôn quê. Mỗi khi có việc ra tỉnh, Ngài quá giang bằng chiếc đò ngang. Hôm ấy nhằm ngày 13 tháng bảy, Ngài quá giang ra tỉnh để chủ lễ một đàn kỳ siêu. Khi đò ra tới giữa dòng sông cái thì thấy sóng nổi lên ầm ầm làm cho thuyền tròng trành muốn đắm. Ai nấy ở trên đò cũng đều hoảng hốt kinh khủng thì ngay lúc ấy, bỗng nhiên thấy nổi lên trên mặt nước một con cá Kình rất lớn, dương hai mắt đỏ ngầu mà nhìn chăm chăm vào vị Hòa thượng kia. Nhưng Hòa thượng vẫn bình tĩnh ngồi niệm Phật.
Trong khi đó, con cá liền cất cao cái đầu lên khỏi mặt nước mà lắp bắp cái miệng nói: “Hỡi hành khách ở trên đò! Các người muốn được yên lành, hãy liệng lão ác tăng xuống đây cho ta để nuốt chửng nó đi cho hả cơn giận. Các người có biết không? – Ngày trước, ta theo lão tu đạo, lão không chịu giảng dạy chi cả, cứ buông lỏng cho ta muốn làm gì thì làm, không hề kiềm chế. Vì vậy, ta mới sinh ra lười biếng, chỉ lo rong chơi ăn ngủ theo thế tục, không thiết gì tới công phu bái sám, ăn chay niệm Phật và săn sóc công việc Chùa. Không những thế, mỗi khi có đám tiệc lại để cho ta mang hậu đắp y để khoe khoang với đại chúng và bổn đạo. Vì những tệ đoan như thế nên sau khi ta chết, phải đọa vào loài súc sanh làm thân cá Kình, đi tới đâu thì ồ ạt tới đó, làm cho những tôm cá chạy tét đi hết, không có cái gì để ăn, phải chịu đói khát, rất nên cực khổ, thiệt khổ còn hơn loài quỉ đói nữa. Vì thế mà ta chỉ oán lão thôi, còn các người đối với ta vô can, ta không muốn làm hại ai cả”.
Nghe cá nói xong, Sư Cụ liền mỉm cười mà đáp rằng: “Này nghiệt súc! Nhà ngươi nói thế mới thật là thậm ngu. Há ngươi không hiểu câu phương ngôn: Ðạp gai, lấy gai mà lễ, hay sao? Nếu ngươi đã biết vì tạo những tội lỗi như thế mà phải đọa làm thân cá thì nhà ngươi cần phải ăn năn sám hối tội lỗi và tạo duyên lành, ngõ hầu mới được tội diệt phước sanh, rồi mới mong thoát khỏi được quả báo. Ta là Thầy ngươi, mỗi khi dạy ngươi đúng theo giới luật thì ngươi bảo là quá nghiêm khắc, hay la rầy quở phạt, còn thả lỏng cho ngươi không nghiêm trị thì ngươi quen tánh mông lung, thành thử mới phải đọa làm loài cá. Một khi bị đọa, ngươi cần phải sám hối và báo cho ta biết để tụng kinh siêu độ và xả tội cho, còn nếu như muốn ăn thịt ta thì lấy ai để cứu ngươi nữa. Ðã có tội, không biết ăn năn mà còn kiếm cách đỗ lỗi cho người. Phạm Phật thì có Tăng cứu, còn như phạm Tăng thì Phật không độ. Ngươi có hiểu câu đó chăng? Loài súc sanh kia!!!
Sư cụ quở vừa dứt lời thì cá Kình kia cũng lặn chìm xuống dưới đáy nước.
Kế đó, sau bảy ngày đêm vang tiếng tụng kinh cầu siêu độ tại chùa thì cá Kình liền trồi lên mặt nước, lết thẳng tới sân Chùa, nằm dài một đống và hướng vào trong Chùa mà nói rằng: “Bạch Thầy, mấy hôm nay, nhờ công đức của Thầy và chư Tăng Ni chú nguyện và tụng kinh siêu độ nên con đã được tiêu nghiệp, thoát kiếp cá Kình và sanh lên cõi trời Dục Giới. Trước khi lên cõi Trời để hưởng sự khoái lạc của chư Thiên, co
n xin đến đây thành tâm đảnh lễ tạ ơn Thầy cùng chư Tăng Ni và con nguyện lưu cái xác thân cá Kình tại Chùa để mỗi ngày, chư Tăng Ni cầm cây gõ lên đầu con, ngõ hầu làm gương cho những vị nào tu hành còn biếng nhác, ưa khoe khoang, tự tôn, tự đại, không chịu khép mình vào vòng giới luật và cũng là để nhắc nhở cho những vị ấy nhớ tới bổn phận tu tâm, hành đạo, để khỏi xao lãng công phu bái sám, niệm Phật tu thiền, thúc liễm thâm tâm, nghiêm trì giới luật.
Vì sự tích như đã kể ở trên mà từ ngày ấy tới nay, cái mõ mới trổ theo hình con cá để làm kỷ niệm mà thức tỉnh người tu hành.
“Em nhớ hôm nào sông nước vắng
Chuông Chùa lay động ánh sương chiều
Lời Kinh, tiếng “Mõ” như thầm nhắn
Cái kiếp phù sinh buổi xế chiều “
Sự tích 1000 con hạc giấy
Nàng tiểu thư nhà giàu phải lòng chàng thư sinh nghèo. Chàng đã chết vì thử thách của huyện quan để có thể đến với nàng tiểu thư. Sau đó nàng cũng chết đi và muốn được chôn cạnh mộ của người yêu.
Chuyện kể rằng một nàng tiểu thư đài các con gái huyện quan yêu say đắm một chàng thư sinh nghèo. Hai trái tim đến với nhau bằng tình yêu tinh khôi tuổi xuân thì.
Chuyện đến tai huyện quan, ông đùng đùng nổi giận và ra sức ngăn cấm. Thì ra huyện quan chê chàng thư sinh quá nghèo và vốn dĩ ông đã có kế hoạch kén rể là con trai một vị thương gia giàu có. Bị cấm đoán, nàng tiểu thư ngày ngày u sầu, ra vào buồn tênh, sắc xuân héo úa. Mối tình giữa nàng tiểu thư và chàng thư sinh càng bị cấm càng trở nên mãnh liệt. Tức tối, huyện quan gọi chàng thư sinh đến và ra một điều kiện, nếu chàng thư sinh đáp ứng sẽ được gả con gái. Điều kiện là trong vòng ba ngày đêm, chàng thư sinh phải xếp đúng 1.000 con hạc giấy làm lễ vật cầu hôn.
Thế là trong ba ngày liên tiếp, chàng thư sinh cắm cúi xếp hạc giấy. Đêm trước thời hạn ba ngày, chàng vừa xếp xong con hạc giấy thứ 999 thì bất tỉnh vì kiệt sức. Vài ngày sau, chàng qua đời. Người ta chôn chàng ở một ngọn đồi hoang vắng sau chợ huyện. Một thời gian ngắn sau đó, người ta phát hiện trên mộ chàng thư sinh có con hạc giấy thứ 1.000 rỉ máu.
Nàng tiểu thư không được biết câu chuyện này, càng không biết về cái chết của người tình. Nàng đành phải chấp nhận lên kiệu hoa về nhà chồng. Trước ngày vu qui một con trăng, nàng vô tình biết chuyện chàng thư sinh và con hạc giấy thứ 1.000 bên mộ vắng. Đau xót đến tột cùng, nàng lâm bệnh nặng. Trước khi qua đời, nàng cầu mong cha cho phép được chôn bên cạnh mộ chàng thư sinh.
Bẵng đi một thời gian nữa, người ta ra thăm mộ hai người thấy từ hai nấm mồ mọc lên hai cây lạ, từ hai thân cây mọc ra hai cành cây hướng về nhau, gắn chặt với nhau không rời dù cho trời có đổ mưa to gió lớn hay tuyết sương giăng phủ. Từ đó trở đi, dân gian truyền tụng nhau sự tích Ngàn cánh hạc giấy và gắn mối tình đẹp đẽ ấy của hai người với câu tục ngữ “Như chim liền cánh, như cây liền cành”. Người đời sau còn sáng tác nhiều bài hát về ngàn cánh hạc giấy để thổ lộ nỗi niềm những kẻ yêu đương bị cách trở.
Sự tích đền Bà Đế
Bà Đế vốn là một cô gái siêng năng và có tiếng hát lay động lòng người. Khi Chúa Trịnh nghe được đã say mê và đi tìm. Cho đến khi bà mang thai vì thuyền hoa của Chúa chưa kịp đến đoán mà bà đã bị chết oan. Cuối cùng, khi chúa đến đã lập đền thờ cho bà.
Tương truyền vào năm 1718, ở phía đông nam vùng Ngọc Ðồ Sơn có đôi vợ chồng họ Ðào, đã hai mươi năm không có con. Hai vợ chồng tu thân, tích đức, cầu xin trời phật cho một mụn con. Trời phật động lòng, chứng giám, rồi báo mộng cho người vợ được mang thai. Tròn ngày, tròn tháng, đứa bé ra đời và được đặt tên là Ðào Thị Hương. Từ khi sinh ra, người đứa trẻ đã toả hương thơm ngát, phát ánh hào quang và đi đến đâu cũng có làn mây che đến đó. Càng lớn lên đứa trẻ (Bà Ðế) càng xinh đẹp, lộng lẫy.
Bà Ðế rất khéo tay, siêng năng mọi việc. Hàng ngày bà đi chăn trâu, cắt cỏ, tay làm, miệng hát, tiếng hát ngân vang cả núi rừng. Người ta nói rằng, tiếng hát của bà làm chim ngừng hót, sóng ngừng vỗ, đất trời lặng đi để lắng nghe.
Vào năm 1736, chúa Trịnh Giang về kinh lý Ðồ Sơn. Chúa cùng đoàn người dạo thắng cảnh bằng thuyền rồng trên núi Ðộc. Xúc động trước tiếng hát mượt mà, chúa truyền cho quân lính đi tìm người hát. Khi gặp được bà với vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, chúa yêu mến và quyến luyến không rời. Khi về kinh đô, chúa có hẹn ngày về đón bà.
Bà mang thai, trong lòng rất lo sợ, ngày đêm trông ngóng thuyền hoa của chúa. Hàng Tổng biết chuyện đòi phạt tiền. Nhà nghèo không có tiền nộp phạt, hàng tổng đem bà ra khu núi Ðộc rồi dìm bà xuống biển. Trước khi chết, bà ngửa mặt lên trời khóc than rằng: “Phận gái thân cô, gặp chúa yêu thương tôi đâu dám chống, nhìn mẹ cha, hàng xóm tôi đâu dám quên. Xin trời phật chứng giám cho lòng con. Khi con bị dìm xuống nước, nếu có oan ức, trời phật cho con nổi lên ba lần”.
Quả nhiên bà nổi lên ba lần, mọi người ai nấy đều kinh sợ. Sau một tháng, thuyền hoa của chúa về rước bà về kinh. Biết chuyện oan khuất, chúa Trịnh Giang cho xây đền, lập đàn giải oan cho bà. Ðền bà được vua Tự Ðức về thăm ban sắc phong: Ðông Nhạc Ðế Bà – Trịnh chúa phu nhân.
Người đời sau thương tiếc và khâm phục lòng thuỷ chung của bà. Nhiều danh nhân đã đề thơ ca ngợi:
“Lòng sáng như băng trời đất biết
Nỗi niềm thành kính quỷ thần hay
Ðế Bà hương lửa nghìn thu ấy
Ðể giải hồn oan cõi thế này”
Từ bấy đến nay, khách thập phương tấp nập đến du lịch Đồ Sơn trẩy hội đền Bà Ðế. Người ta đến để xin tài, xin lộc và đặc biệt cùng bà giải mọi nỗi oan khuất mà mình gặp phải.
Sự Tích Trầu Cau
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em. Năm hai anh em mười bảy mười tám tuổi thì cha mẹ đều chết cả. Hai anh em vốn đã thương yêu ngau, nay gặp cảnh hiu quạnh, lại càng yêu thương nhau hơn
trước.
Không còn được cha dạy dỗ cho nữa, hai anh em đến xin học ông đạo sĩ họ Lưu. Hai anh em học hành chăm chỉ lại đứng đắn nên được thầy yêu như con. Thầy Lưu có một cô con gái tuổi chừng mười sáu mười bảy, nhan sắc tươi tắn, con gái trong vùng không người nào sánh kịp.
Trông thấy hai anh em họ Cao vừa đẹp vừa hiền, người con gái đem lòng yêu mến, muốn kén người anh làm chồng, nhưng không biết người nào là anh, người nào là em.
Một hôm, nhân nhà nấu cháo, người con gái lấy một bát cháo và một đôi đũa mời hai người ăn. Thấy người em nhường người anh ăn, người con gái mới nhận được ai là anh, ai là em. Sau đó, người con gái nói với cha mẹ cho phép mình lấy người anh làm chồng.
Từ khi người anh có vợ thì thương yêu giữa hai anh em không được thắm thiết nữa. Người em rất là buồn, nhưng người anh vô tình không để ý đến.
Một hôm hai anh em cùng lên nương, tối mịt mới về, người em vào nhà trước; chàng vừa bước chân qua ngưỡng cửa thì người chị dâu ở trong buồng chạy ra lầm chàng là chồng mình, vội ôm chầm lấy. Người em liền kêu lên, cả hai đều xấu hổ. Giữa lúc ấy, người anh cũng bước vào nhà. Từ đấy người anh nghi em có tình ý với vợ mình, càng hững hờ với em hơn trước.
Một buổi chiều, anh chị đều đi vắng cả, người em ngồi một mình nhìn ra khu rừng xa xa, cảm thấy cô quạnh, lại càng buồn tủi, vùng đứng dậy ra đi.
Chàng đi, đi mãi cho đến khu rừng phía trước mặt, rồi theo đường mòn đi thẳng vào rừng âm u. Trời bắt đầu tối, trăng đã lên, mà chàng vẫn cứ đi. Đi đến một con suối rộng nước sâu và xanh biếc, chàng không lội qua được, đành ngồi nghỉ bên bờ. Chàng khóc thổn thức, tiếng suối reo và cứ reo, át cả tiếng khóc của chàng. Đêm mỗi lúc một khuya, sương xuống mỗi lúc một nhiều, sương lạnh thấm dần vào da thịt chàng, chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành một tảng đá.
Người anh cùng vợ về nhà, không thấy em đâu, lẳng lặng đi tìm, không nói cho vợ biết. Theo con đường mòn vào rừng, chàng đi mãi, đi mãi, và sau cùng đến con suối xanh biếc đang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng và không thể lội qua được, đành ngồi bên bờ suối, tựa mình vào một tảng đá. Chàng có ngờ đâu chính tảng đá là em mình! Sương vẫn xuống đều, sương lạnh rơi lã chã từ cành lá xuống. Chàng rầu rĩ khóc than hồi lâu, ngất đi và chết cứng, biến thành một cây không cành, mọc thẳng bên tảng đá.
Ở nhà, vợ không thấy chồng đâu, vội đi tìm và cũng theo con đường mòn đi vào rừng thẳm. Nàng đi mãi, bước thấp bước cao, rồi cuối cùng gặp con suối nước sâu và xanh biếc. Nàng không còn đi được nữa. Nàng ngồi tựa vào gốc cây không cành mọc bên tảng đá, vật mình than khóc. Nàng có ngờ đâu nàng đã ngồi tựa vào chồng mình và sát đó là em chồng. Nàng than khóc, nhưng tiếng suối to hơn cả tiếng than khóc của nàng. Đêm đã ngả dần về sáng, sương xuống càng nhiều, mù mịt cả núi rừng, nàng vật vã khóc than. Chưa đầy nửa đêm mà nàng đã mình gầy xác ve, thân mình dài lêu nghêu, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cây không cành mọc bên tảng đá.
Về sau chuyện ấy đến tai mọi người, ai nấy đều thương xót. Một hôm, vua Hùng đi qua chỗ ấy, nhân dân đem chuyện ba người kể lại cho vua nghe và đến xem. Vua bảo thử lấy lá cây leo và lấy quả ở cái cây không cành nghiền với nhau xem sao, thì thấy mùi vị cay cay. Nhai thử, thấy thơm ngon và nhổ nước vào tảng đá thì thấy bãi nước biến dần ra sắc đỏ. Nhân dân gọi cái cây mọc thẳng kia là cây cau, cây dây leo kia là cây trầu, lại lấy tảng đá ở bên đem về nung cho xốp để ăn với trầu cau, cho miệng thơm, môi đỏ.
Tình duyên của ba người tuy đã chết mà vẫn keo sơn, thắm thiết, cho nên trong mọi sự gặp gỡ của người Việt Nam, miếng trầu bao giờ cũng là đầu câu chuyện, để bắt đầu mối lương duyên, và khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè, tục ăn trầu đã trở nên tục cố hữu của dân tộc Việt Nam.
Hãy Là Người Trả Lời Câu Hỏi Đầu Tiên