Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận xuất sắc, là bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên không chỉ khẳng định độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn mạnh mẽ tuyên bố với toàn thế giới về nền độc lập, chủ quyền đáng được tôn trọng ấy. Trong phần cuối tác phẩm, Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Dưới đây là những bài văn phân tích lời tuyên bố độc lập (phần 3) trong bản Tuyên ngôn độc lập (Ngữ văn 12) hay nhất mà Toplist đã sưu tầm và tổng hợp.
Bài tham khảo số 4
Tuyên Ngôn độc lập là một tác phẩm có giá trị lịch sử và chính trị vô cùng to lớn, mở ra một kỷ nguyên mới trong vận mệnh của dân tộc, một kỷ nguyên độc lập, tự do, nhưng cũng nhiều khó khăn thách thức trong tương lai. Tác phẩm thể hiện niềm tự hào, mong ước tha thiết về một đất nước hoàn toàn độc lập, cũng như sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam ta, sẵn sàng hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước.
Nói đến Hồ Chí Minh tức là đang nói đến một định nghĩa rộng rãi nhất của hai tiếng “con người”, Người đã phấn đấu nỗ lực và hy sinh cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh và giải phóng dân tộc. Ngay cả với sự nghiệp văn thơ của mình, Hồ Chí Minh cũng khéo léo xem đó là một vũ khí chiến đấu lợi hại, có sức mạnh to lớn để phục vụ cho sự nghiệp chính trị, quân sự cao cả của mình. Trong số vô vàn các tác phẩm của mình bao gồm cả thơ, văn chính luận, truyện ngắn, ký sự,… thì Tuyên ngôn độc lập được xem là tác phẩm để đời, kinh điển không chỉ có giá trị về mặt văn học và hơn hết chính là những giá trị lịch sử, chính trị sâu sắc, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong vận mệnh của dân tộc Việt Nam ta. Đặc biệt ở phần kết của tác phẩm lời tuyên ngôn sắc bén, mạnh mẽ đã khẳng định một nền độc lập mới hoàn toàn của nước Việt Nam ta sau hơn 80 năm giời nô lệ, mở ra một kỷ nguyên mới độc lập và tràn đầy hy vọng cho dân tộc.
Sau khi đã nêu ra được cơ sở pháp lý đậm tính nhân văn là chân lý của thời đại, thông qua việc dẫn chứng từ hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, cùng với cơ sở thực tiễn, vạch trần bộ mặt xảo trá và tàn độc của thực dân Pháp trên đất nước ta, khẳng định quá trình nhân dân ta đứng lên đấu tranh để giành lại quyền tự chủ từ tay Nhật, chứ không phải Pháp. Điều đó đã đủ cơ sở, đủ căn cứ để Hồ Chủ tịch đưa ra lời tuyên ngôn mạnh mẽ về quyền được độc lập, được đứng lên làm chủ vận mệnh đất nước của dân tộc. Rằng “Một dân tộc đã gan góc chống lại ách nô lệ hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc ấy phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Từng câu từng chữ, từng lời với kết cấu trùng điệp, ngữ điệu dồn dập, xúc động và tâm huyết đã thể hiện khát khao cháy bỏng, mạnh mẽ về một mong ước lớn lao mà cả đời Người theo đuổi ấy là mang lại cho dân tộc một nền tự do, độc lập.
Thêm vào đó có thể nhận thấy một điểm chung của phần kết tác phẩm ấy chính là lời lẽ hùng hồn, xúc tích thể hiện sự tự tin, hùng cường, của một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng anh hùng, gan góc, dám đương đầu với thực dân, phát xít, quyết giữ lấy từng tấc đất mà cha ông mấy ngàn năm gìn giữ, gây dựng. Bên cạnh việc khẳng định nền độc lập, tự do mà Bác hàng tâm huyết bấy lâu, bản tuyên ngôn còn nhấn mạnh và đặc biệt lưu ý những điểm sáng rất quan trọng trong việc thoát ly hoàn toàn khỏi ách thống trị của Pháp rằng “Bởi thế cho nên chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân tộc Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, xóa bỏ tất cả các đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Lời tuyên bố đã khẳng định mạnh mẽ sự độc lập về chính trị của đất nước ta, cũng như bác bỏ hoàn toàn những mưu đồ chính trị phi lý và Pháp đã áp đặt lên đất nước ta suốt mấy mươi năm trời, mở ra cho nhân dân ta, Tổ quốc ta một tương lai mới, một con đường mới, độc lập tự cường, thoát khỏi cái luận điệu “bảo hộ”, “khai sáng” xảo trá mà bọn thực dân đã vạch ra để lừa bịp nhân dân và dư luận thế giới.
Dẫu biết rằng, việc tự khẳng định độc lập và yêu cầu thế giới công nhận sự độc lập của một quốc gia bé nhỏ là điều vô cùng khó khăn, tuy nhiên với ngòi bút sắc bén và hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng, không chỉ nêu ra chân lý thời đại mà còn vạch trần được sự gian ác, xảo trá của đế quốc, cũng như những nỗ lực đấu tranh mạnh mẽ kéo dài trong suốt gần một thế kỷ với biết bao xương máu của nhân dân ta, thì lời khẳng định tuyên bố này lại trở nên hết sức hợp lý và thuyết phục, dễ dàng nhận được sự đồng thuận, ủng hộ của các dân tộc anh em trên thế giới. Bên cạnh đó một đất nước “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, cũng cần có một khởi đầu mới bắt nguồn từ cái tên mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra trong phần kết của tác phẩm là “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, càng khẳng định mạnh mẽ thêm tinh thần tự cường, độc lập quyết tâm gây dựng một đất nước mới tươi đẹp và phát triển trong tương lai.
Kết thúc bản tuyên ngôn Hồ Chủ tịch đã thay mặt nhân dân cả nước khẳng định lại một lần nữa nền độc lập tự do của dân tộc, cũng như những quyết tâm bảo vệ, giữ gìn nền độc lập quý giá ấy bằng mọi giá “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. Khẳng định tinh thần đoàn kết, sức mạnh tổng hợp, ý chí chiến đấu mạnh mẽ, đồng thời cũng là tấm lòng yêu chuộng hòa bình, trân quý nền tự do, độc lập đã giành về bằng xương máu của cha ông. Lời tuyên ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chính là lời chung của toàn thể dân tộc Việt Nam vào thời điểm ấy, không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước, mà còn là lời cảnh cáo mạnh mẽ tới tất cả n
hững kẻ đang có mưu đồ cướp nước, một lần nữa muốn đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng của cha ông để vơ vét, tàn hại Tổ quốc ta. Đồng thời đây cũng là những lời tâm huyết cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước, đại đoàn kết chống giặc và chung tay xây dựng một đất nước vững mạnh sánh ngang cùng với các cường quốc năm châu, trên cơ sở nền tảng của một đất nước non trẻ, mới thành lập.
Tuyên Ngôn độc lập là một tác phẩm có giá trị lịch sử và chính trị vô cùng to lớn, mở ra một kỷ nguyên mới trong vận mệnh của dân tộc, một kỷ nguyên độc lập, tự do, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn thách thức trong tương lai. Khẳng định niềm tự hào, mong ước tha thiết về một đất nước hoàn toàn độc lập, cũng như sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam ta, sẵn sàng hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước.
Bài tham khảo số 7
“Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh là một văn bản lịch sử chính trị to lớn tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ra, mở ra một kỉ nguyên mới, độc lập tự do cho dân tộc. Có thể coi đây là “bài thơ thần” của thời đại mới.
Hồ Chủ tịch đã xây dựng bố cục của bản tuyên ngôn với ba phần chính: cơ sở thực tế, cơ sở pháp lý và lời tuyên bố độc lập.
Phần cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân nêu lên lời tuyên bố trịnh trọng và quyết liệt: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Đó chính là tinh thần của cả một dân tộc anh hùng quyết hi sinh tất cả để giữ lấy độc lập, tự do. Cụm từ “tự do và độc lập” được lặp lại ba lần, như khắc sâu vào tâm trí muôn triệu người dân Việt, vang lên mạnh mẽ và rung động như tiếng kèn xung trận hào hùng. Lời tuyên bố nghe như một lời thề sắt đá của nhân dân ta “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.
Ba đoạn cuối của bản tuyên ngôn độc lập là những đoạn văn thép: chất thép của ý chí Hồ Chí Minh, của ý chí Việt Nam.
Chất thép trong lập luận buộc Đồng minh phải công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam, lấy lời của họ để ràng buộc họ. “Chúng tôi tin rằng…”. Tin có ý nghĩa tu từ. Mềm đấy, mà rắn đấy. Tin là tỏ vẻ tôn trọng họ, giá định phẩm chất tốt đẹp của họ. Đó là cách buộc họ phải tự trọng, nghĩa là buộc họ không được có sự bất nhất giữa lời nói và việc làm, “Không thể không công nhận” quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. “Không thể không” hai phủ định nghe vẫn chắc chắn hơn một khẳng định.
Chất thép trong câu tiếp ở cái kết luận tất yếu của một thứ tam đoạn luận độc đáo vì có một vế ẩn mà lại rất rõ. Một dân tộc không chịu khuất phục, đã liên tục chiến đấu chống mọi ách nô lệ Pháp cũng như Nhật, dân tộc đó phải được độc lập. Phe Đồng minh gồm toàn những nước tự do. Một nước đứng về phe Đồng minh, cùng lí tưởng, cùng chiến đấu. Nước đó phải được tự do. Dân tộc đó là dân tộc Việt Nam. Vậy dân tộc Việt Nam phải được độc lập, nước Việt Nam phải được tự do.
Dân tộc, tự do, độc lập. Những từ thiêng liêng đó trở lại cùng với những tính từ gan góc, những trạng ngữ: 80 năm nay, mấy năm nay, những khẳng định: phải được nhưng hùng dũng gõ nhịp trong một điệp khúc của một bài hùng ca đòi quyền sống.
Chất thép trong đoạn cuối cùng là ở tính chất trịnh trọng của bản tuyên bố về một sự thực, về quyết tâm bảo vệ bằng bất cứ giá nào sự thực đó. “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Mỗi từ, mỗi từ đều có sức nặng và sau đó những lời thề thiêng liêng thét lên từ cửa miệng của một triệu người, trên cái âm vang của làn sóng bốn nghìn năm bất khuất càng thêm vững chắc. Bản tuyên ngôn kết thúc dứt khoát ngoan cường như một lời thách thức. Những kẻ thù của Việt nam mù quáng vì lòng tham, không đủ khôn ngoan sáng suốt lần lượt lao đầu vào chất thép Việt Nam và sẻ nghiệm thấy thấm thía cái ghê gớm trong lời cảnh báo của một Hồ Chí Minh, của một Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Như vậy, bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh chính là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn. Tác phẩm được ví như một “bài thơ thần” của thời đại chống Pháp.
Bài tham khảo số 6
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 là một sự kiện lớn, một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử dân tộc, trong tâm trí của người dân Việt Nam. Hơn sáu mươi năm đã trôi qua nhưng mỗi khi xem lại những thước phim tư liệu chúng ta lại hồi hồi như đang đứng giữa Quảng trường Ba Đình năm ấy và lại rưng rưng cảm giác xúc động vui sướng, tự hào khi nghe giọng Bác trầm ấm “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?” khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập – mội văn kiện lịch sử đặc biệt – một áng văn chính luận bất hủ.
Toàn văn bản tuyên ngôn độc lập không dài, chỉ gói gọn trong khoảng chưa đầy một ngàn chữ những vô cùng chặt chẽ và súc tích. Bản Tuyên ngôn chia làm ba phần rõ rệt, mỗi phần một ý, liền mạch với nhau theo một bố cục chặt chẽ mạch lạc.
Phần kết của bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh khẳng định: Độc lập tự do vừa là quyền lợi, vừa là chân lý bất khả xâm phạm, yêu cầu quốc tế phải thừa nhận “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Cuối cùng thay mặt cho cả một dân tộc vừa giành được tự do độc lập, Người nêu lời thề “Quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Tự do vừa giành được thật vô giá. Để có được nó, nhân dân ta đã phải đánh đổi bằng bao nhiêu hi sinh, bao nhiêu xương máu và tâm huyết. Thế mà vẫn còn bao nhiêu thù trong giặc ngoài lúc bây giờ đang lăm le bóp chết sự sống mới hình thành của nước Việt Nam non trẻ. Hiểu được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân nêu lên lời tuyên bố trịnh trọng và quyết liệt “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã thành
một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Đó chính là tinh thần của cả một dân tộc anh hùng quyết hi sinh tất cả để giữ lấy độc lập, tự do. Cụm từ tự do và độc lập được lặp lại ba lần, như khắc sâu vào tâm trí muôn triệu người dân Việt, vang lên mạnh mẽ và rung động như tiếng kèn xung trận hào hùng. Lời tuyên bố nghe như một lời thề sắt đá và thiêng liêng, vừa khích lệ nhân dân ta vừa cảnh báo kẻ thù.
Đây là bản Tuyên ngôn độc lập lần đầu tiên tuyên bố với thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới, đánh dấu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do cho một dân tộc bất khuất kiên cường. Nó đánh dấu thắng lợi đầu tiên của một nước ở châu Á. Mặt khác, bản Tuyên ngôn còn là một áng văn chính luận mẫu mực, đanh thép và lôi cuốn ở lý lẽ và lập luận chặt chẽ, ở từ ngữ, hình ảnh dễ cảm, chính xác, mạnh mẽ. Ở câu văn gọn mà sắc, giản dị mà hùng hồn, đã vừa cảnh cáo, vạch mặt kẻ thù, vừa khích lệ, động viên tinh thần nhân dân và tranh thủ sự đồng tình quốc tế.
Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kế thừa được những chân lí của lịch sử dân tộc và thế giới vừa mang tính thời đại. Bản tuyên ngôn còn đồng thời mang tính tính lịch sử và mang tính văn chương. Bởi thế nó mãi mãi là áng văn bất hủ, là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam yêu nước.
Bài tham khảo số 2
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, trước hơn nửa triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”. Áng văn này mang ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại: tuyên bố thủ tiêu vĩnh viễn chế độ thực dân – phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên độc lập, tự do của dân tộc.
Kết thúc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Một lời tuyên bố đanh thép và hùng hồn, đã kết tinh một cách sáng ngời những nội dung cơ bản của “Tuyên ngôn Độc lập”.
Trước hết, Hồ Chủ Tịch khẳng định “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập” vì đó là điều phù hợp với đạo lý và pháp lý. Đất nước và con người Việt Nam cũng như tất cả mọi quốc gia, mọi dân tộc và mọi người “đều sinh ra có quyền bình đẳng (…), có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (“Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của Mỹ).
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập” bởi lẽ “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (“Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Cách mạng Pháp năm 1791).
Từ nhân quyền, Hồ Chủ Tịch đã “suy rộng ra”, nói đến quyền tự quyết của mọi dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Lẽ phải ấy không ai chối cãi được và vô cùng thiêng liêng. Sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, lời tuyên bố “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập” biểu lộ niềm tự hào dân tộc và khát vọng độc lập, tự do của đất nước và con người Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, “và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Đó là một thực tế lịch sử không ai chối cãi được. Hồ Chủ tịch đã vạch trần những tội ác dã man về chính trị, về kinh tế của thực dân Pháp đối với dân tộc ta trong suốt 80 năm trời. Chúng áp bức, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, “khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”. Thực dân Pháp đã tước đoạt tự do, dìm nhân ta vào máu và nước mắt trong đêm trường nô lệ: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”,… Thực dân Pháp chỉ trong vòng 5 năm (1940/1945), chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật. Pháp và Nhật đã gây ra nạn đói năm Ất Dậu (1945) làm cho hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Trước khi thưa chạy (9/3/1945), bọn thực dân Pháp “còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Đó là lẽ phải, là sự thật lịch sử không ai chối cãi được. Cách mạng tháng Tám bùng nổ và thắng lợi, “dân ta đã lấy nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời khi ba kẻ thù bị lật đổ, thất bại: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Độc lập và tự do là thành quả đấu tranh và cách mạng bền bỉ, gan góc, lâu dài của dân tộc ta:
“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là một sự thật lịch sử, nên Hồ Chủ tịch mới tuyên bố một cách đanh thép, hùng hồn: “Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.
Độc lập tự do là khát vọng, là ý chí của đất nước và con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Lời tuyên bố vang lên như một lời thề thiêng liêng làm chấn động lòng người: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Cụm từ “Toàn thể dân tộc Việt Nam” nói lên sức mạnh đại đoàn kết, triệu triệu con người Việt Nam kết thành một khối mà không thể một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục được! “Tự do hay là chết!”, “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành lại nên độc lập!”
. Quyết tâm ấy được Hồ Chủ tịch tuyên bố đanh thép hùng hồn.
Triệu triệu con người Việt Nam “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Lời tuyên bố của Hồ Chủ tịch là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với thực dân Pháp đang âm mưu tái chiếm Việt Nam một lần nữa, đồng thời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu hi sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Ba mươi năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta đã thể hiện một cách hùng hồn lời tuyên bố mạnh mẽ ấy. Đó là khát vọng, là ý chí sắt đá vẻ độc lập tự do của dân tộc ta, của nhân dân ta. Một lần nữa, Người lại Tuyên bố: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không làm nô lệ!”. (“Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”-19-12-1946).
Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn Độc lập”: Những chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc ta đã trải qua rất đáng tự hào: Cách mạng tháng Tám – Chiến thắng Điện Biên oai hùng – Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng – Non sông liền một dải, Bác Nam sum họp một nhà…
“Tuyên ngôn Độc lập” xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng văn”. Nó đã kế tục truyền thống vinh quang của “Nam quốc sơn của hà”, “Bình Ngô đại cáo”. Nó là lời Non Nước cao cả và thiêng liêng, thể hiện sâu sắc tư tưởng vĩ đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, biểu lộ ý chí và sức mạnh Việt Nam.
Đọc đoạn văn cuối bản “Tuyên ngôn Độc lập”, chúng ta càng thấm thìa tự hào về độc lập, tự do mà dân tộc ta đã giành được bằng xương máu của bao thế hệ, của bao anh hùng liệt sĩ.
Bài tham khảo số 1
Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận xuất sắc, là bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên không chỉ khẳng định độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn mạnh mẽ tuyên bố với toàn thế giới về nền độc lập, chủ quyền đáng được tôn trọng ấy. Trong phần cuối tác phẩm, Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Lời tuyên bố của chủ tịch Hồ Chí Minh cuối tác phẩm là kết tinh sáng ngời của tình yêu nước, ý thức tự lực, tự cường và khát vọng độc lập, tự do cho dân tộc. Người đã khẳng định “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập”, đúng vậy Việt Nam cũng như bao dân tộc yêu nước, chuộng hòa bình khác trên thế giới như Pháp, Mĩ chúng ta có quyền hưởng tự do và độc lập “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn tự do, bình đẳng về quyền lợi” và quyền bình đẳng ấy là “những quyền không ai có thể xâm phạm được. Lập luận của người vô cùng trí tuệ và sắc sảo khi dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đầu tác phẩm, từ đó có cơ sở lập luận để khẳng định quyền hưởng độc lập, tự do là quyền lợi chính đáng, hợp với đạo lý và pháp lý của dân tộc Việt Nam.
Độc lập, tự do của ngày hôm nay chính là thành quả đấu tranh đoàn kết, kiên trì, lâu dài của toàn đảng, toàn dân ta “ Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”. Lời tuyên bố hùng hồn, đanh thép: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” đã khẳng định sức mạnh và quyết tâm mạnh mẽ của toàn dân tộc trong công cuộc bảo vệ và giữ vững nền độc lập thiêng liêng mà gian khổ, hy sinh lắm chúng ta mới giành lại được.
Lời tuyên bố của chủ tịch Hồ Chí Minh còn là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với thực dân Pháp, với những thế lực bạo tàn phản cách mạng đang âm mưu xâm chiếm, thôn tính Việt nam một lần nữa. Qua lời tuyên bố của Bác đã khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức đoàn kết sức mạnh của toàn dân, toàn quân trong việc bảo vệ nền độc lập và chính quyền non trẻ vừa được thành lập.
Như vậy, bằng những lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết phục, ngôn ngữ đanh thép, chủ tịch Hồ Chí Minh đã mạnh mẽ tuyên bố nền độc lập, tự chủ trong niềm tự hào, đồng thời khẳng định sức mạnh và quyết tâm của cả dân tộc trong việc bảo vệ, duy trì nền độc lập ấy.
Bài tham khảo số 3
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng vạn đồng bào, Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam mới. Đây là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn trong việc khẳng định quyền tự chủ, bình đẳng của dân tộc Việt Nam trên toàn thế giới và đánh dấu mốc son lịch sử mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do trên đất nước ta.
Kết thúc bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đoạn văn trên đã làm rõ những tư tưởng lớn của Người trong toàn bộ bản tuyên ngôn. Đồng thời đây cũng là lời tuyên bố độc lập được rút ra từ những chân lý rằng “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng.Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Thay mặt cho Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã đưa ra lời tuyên bố tự do, độc lập thể hiện được tinh thần, ý chí chí của toàn quân, toàn dân ta trong cuộc kháng chiến thực dân Pháp để giữ vững quyền tự do, độc lập. Người trịnh trọng tuyên bố với toàn thể nhân dân trên thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Bởi Việt Nam cũng như bao quốc gia k
hác, có quyền bình đẳng và quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Cho nên, bản tuyên ngôn độc lập đã “tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.
“Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Sau khoảng thời gian hơn 80 năm chịu sự đô hộ của thực dân Pháp thì lời tuyên ngôn này đã phần nào thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc, sự đoàn kết đồng lòng của quân và dân ta đã mang lại nền độc lập ấy. Để có được điều đó, nhân dân ta đã phải chịu đựng chế độ cai trị hà khắc, dã man của chúng. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở ba miền để ngăn tình đoàn kết và ngăn việc thống nhất đất nước của nhân dân ta. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, thi hành chính sách ngu dân, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, trong 5 năm, chúng bán nước ta hai lần cho Nhật…Và dân tộc ta đã “lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”. “Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”.
Không chỉ khẳng định nước Việt Nam là một nước độc lập, Hồ Chí Minh còn khẳng định quyết tâm: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đó như một lời thề thiêng liêng, dù có khó khăn, gian khổ đến đâu thì dân tộc Việt Nam sẽ đoàn kết, tạo nên sức mạnh để chiến đấu, bảo vệ nền độc lập, dân chủ.
Lời tuyên ngôn đã khơi dậy lòng yêu nước, sức mạnh đoàn kết ở mỗi người con đất Việt. “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Đó còn thể hiện lòng quyết tâm mạnh mẽ, chiến đấu đến cùng để bảo vệ bờ cõi đất nước, chiến đấu đến cùng để chống lại mọi âm mưu xâm chiếm của các thế lực thù địch trên thế giới có dã tâm xâm lược nước ta.
Tác phẩm là áng văn chính luận mẫu mực, là văn kiện chính trị lớn tổng kết cả một thời kỳ lịch sử của dân tộc, chứa đựng nhiều chân lí lớn, sức thuyết phục cao, ngắn gọn mà lời lẽ hết sức giản dị. Đoạn kết của bản tuyên ngôn đã khẳng định lại Việt Nam là một nước độc lập và “toàn thể nhân dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Bài tham khảo số 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại, toàn bộ khát vọng và nhân cách cao đẹp của Người đều thể hiện trong sự nghiệp cách mạng, quân sự, ngoại giao, giáo dục, văn hóa,… Trong số đó sự nghiệp văn chương là một trong những điểm nhấn quan trọng khi nói về tư tưởng đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh. Người viết văn không phải chỉ để thỏa mãn cái thú tao nhã của văn nhân nghĩa sĩ, mà sinh thời văn thơ của Người luôn đóng một vai trò trò quan trọng trong việc phục vụ kháng chiến, phục vụ cách mạng đi đến thành công. Có thể nói rằng trong bước đường cách mạng suốt cả cuộc đời, văn thơ của Người luôn theo sát và đóng vai trò bổ trợ mọi lúc mọi nơi. Điển hình cho việc văn học song hành với cách mạng phải kể đến tác phẩm sáng giá nhất của Hồ Chủ tịch, văn kiện có ý nghĩa lịch vô cùng quan trọng, đặt dấu mốc quan trọng cho nền độc lập của dân tộc ấy là bản Tuyên ngôn độc lập, được Bác tuyên đọc vào ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với bối cảnh lịch sử quan trọng, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật buông vũ khí đầu hàng quân Đồng Minh, nhận thấy thời cơ giải phóng đã đến, Đảng đã tiến hành phát động nhân dân cả nước nổi dậy giành chính quyền từ tay Nhật. Tổng khởi nghĩa thành công, ngày 26/8/1945 Bác Hồ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, tức tốc soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang. Ngày 2/9/1945, Hồ Chủ tịch đã đã tuyên đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước hàng triệu người dân Việt Nam tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chấm dứt hơn 80 năm xiềng xích nô lệ, giành lại độc lập chủ quyền từ đế quốc Pháp và phát xít Nhật. Đồng thời cũng chính thức chấm dứt chế độ phong kiến, quân chủ chuyên chế đã tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên của độc lập, tự do và tự chủ. Bản tuyên ngôn cũng là lời công kích mạnh mẽ đến các thế lực thù địch đang nhăm nhe quay lại xâm lược nước ta, đập tan những luận điệu xảo trá, âm mưu thâm độc của chúng. Khuyến khích, cổ vũ, động viên các dân tộc đang bị áp bức trên thế giới mạnh mẽ đứng lên giành lại chính quyền, độc lập tự chủ cho đất nước của mình, và tranh thủ sự đồng tình, thiện chí giúp đỡ của các quốc gia khác trên thế giới.
Tuyên ngôn độc lập với vai trò là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, thì bản thân nó còn là một áng văn chính luận xuất sắc với những hệ thống luận điểm, luận cứ, chặt chẽ, ngắn gọn và súc tích, mang tính thuyết phục cao. Thể hiện tài năng ấn tượng của Bác trong lĩnh vực văn chính luận với ngòi bút sắc bén, uyên bác, bên cạnh biệt tài thơ ca trữ tình chính trị.Sau khi đã làm rõ cơ sở pháp lý và nêu ra được cơ sở thực tiễn với những lý lẽ và luận điểm chặt chẽ, ngắn gọn xúc tích và đi vào lòng người, Hồ Chủ tịch đã sử dụng những lời lẽ hùng hồn, đanh thép, kết cấu trùng lặp, liên tục nhấn mạnh và xoáy sâu vào hai vấn đề chính là “độc lập” và “tự do” để tuyên bố nền độc lập của dân tộc: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!”. Đó là những lời lẽ xuất phát từ trái tim của một con người có lòng yêu nước, yêu dân, yêu chuộng hòa bình sâu sắc, là những khát khao cháy bỏng không chỉ của riêng mình Bác mà còn chính là thay lời muốn nói của toàn thể dân tộc Việt Nam. Muốn tuyên bố với cả thế giới rằng nước Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền lãnh thổ, nhân dân Việt Nam quyết hy sinh tất cả để bảo vệ nền đ
ộc lập thiêng liêng, cao quý ấy.
Như vậy, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh không chỉ là áng văn chính luận xuất sắc với luận điểm sắc sảo, luận cứ thuyết phục mà còn là văn kiện lịch sử quan trọng, là bản tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Khẳng định nền độc lập của dân tộc sau hơn 80 năm giời nô lệ, mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập, tự do và tự chủ.
Hãy Là Người Trả Lời Câu Hỏi Đầu Tiên